PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG - ĐỨC PHẬT GIỮA HOÀNG TRIỀU



Chẳng phải những bậc kì tài do truyền thuyết thêu dệt, một con người có thật trong lịch sử bằng xương bằng thịt, sinh ra và lớn lên tại kinh đô Thăng Long. Sau khi đã hoàng thành sự nghiệp vẻ vang, đánh đuổi giặc ngoại xâm, đem lại quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc cho muôn dân Đại Việt đã từ bỏ ngai vàng, vào Yên Tử tu hành rồi hiển Phật…Đó chính là Đức Vua Trần Nhân Tông – một vị hoàng Đế minh quân kì tài, góp phần tô thêm trang sử vàng chói lọi của dân tộc thời nhà Trần, tạo lập đỉnh cao của nền văn minh Đại Việt.

Triều đại nhà Trần kéo dài 175 năm, từ năm 1225 đến năm 1400 và trải qua 14 đời vua. Trần Nhân Tông là đời vua thứ 3, sau ông nội là vua Trần Thái Tông và vua cha là Trần Thánh Tông.

Hoàng đế Trần Nhân Tông (tại vị: 1278 - 1293) tên húy là Trần Khâm, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định). Ông là con trưởng của Thánh Tông Trần Hoảng và mẹ là Nguyễn Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu Trần Thị Thiều, sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (tức ngày 7 tháng 12 năm 1258). Vua ở ngôi 15 năm (1278 - 1293), nhường ngôi cho con là Anh Tông lên làm Thái Thượng hoàng 5 năm (1293 – 1298), xuất gia đi tu (1293 – 1308) và viên tịch ngày 3 tháng 11 năm Mậu Thân (1308), thọ 51 tuổi. 

Tượng thờ vua Trần Thánh Tông

Theo Đại Việt sử ký toàn thư (bộ quốc sử Đại Việt biên soạn năm 1479 thời Lê Thánh Tông), Trần Khâm ngay từ khi sinh ra đã được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng, nên vua cha và ông nội – Thái thượng hoàng Trần Thái Tông đã gọi ông là Kim Tiên đồng tử (金仙童子). Các sách Tam Tổ thực lục và Thánh đăng ngữ lục (đều ra đời vào khoảng thế kỷ XIV) chép biệt hiệu này là Kim Phật (金佛). Cả hai sách này và Đại Việt Sử ký Toàn thư đều kể rằng bên vai phải Trần Khâm có nốt ruồi đen lớn như hạt đậu; người xem tướng đoán rằng hoàng tử về sau sẽ làm được việc lớn.


Hoàng tử Trần khâm sinh ra trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Với tư chất thông minh, ông đã nhanh chóng lĩnh hội được tri thức về trị quốc của nho giáo, tinh thần nhân văn của Phật giáo. Nhà vua đã kế thừa được kinh nghiệm về nội trị và ngoại giao của các tiên đế.

Lớn lên năm 16 tuổi (1274), ngài được lập làm Đông cung Thái Tử và cùng năm Ngài kết duyên cùng công chúa Quyên Thánh – trưởng nữ của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn (tức Khâm Từ Hoàng hậu sau này). Vua Trần Thánh Tông đã mời các bậc lão thông Nho giáo, Tứ thư, Ngũ kinh để dạy cho ngài như Lê Phụ Trần, Nguyễn Thánh Huấn, Nghĩa Sĩ Cố… tất cả đều hết lòng dạy dỗ cho Thái tử. Chính Vua cha cũng đã soạn Di hậu lục để dạy dỗ cho Thái tử cách xử thế, chuẩn bị nối nghiệp sau này.

Về Phật pháp, Ngài học đạo với Tuệ Trung Thượng Sĩ, được Thượng Sĩ hết lòng hướng dẫn và trao đổi những yếu nghĩa Thiền tông. Ngài tâm đắc nhất là câu: “Quan sát lại chính mình đó là bổn phận, không do người khác làm được” và rất mực tôn kính Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ngài thường tới lui chùa trong kinh thành để tụng kinh, tọa thiền, lễ bái Tam bảo.

Ngày 22 tháng 10 âm lịch năm Mậu Dần (tức ngày 8 tháng 11 năm 1278) Trần Khâm được cha truyền ngôi, tức vua Trần Nhân Tông (lúc này Thái tử chưa đầy 20 tuổi). Ông tự xưng làm Hiếu Hoàng (孝皇) và được bá quan dâng tôn hiệu là Pháp Thiên Ngự Cực Anh Liệt Vũ Thánh Minh Nhân Hoàng Đế (法天御極 英烈武聖明仁皇帝). Thánh Tông lên làm Thái thượng hoàng và cùng trị vì với Nhân Tông cho đến khi mất năm 1290. Mùa xuân năm 1279, nhà vua lấy niên hiệu là Thiệu Bảo (紹寶). Đến tháng 9 âm lịch năm 1285 ông đổi niên hiệu thành Trùng Hưng (重興) và dùng niên hiệu này tới khi vua nhường ngôi cho Anh Tông năm 1293.

Thái tử Trần Khâm lên ngôi vua 

Nói đến vua Trần Nhân Tông, trước hết là nói đến người anh hùng cứu dân, cứu nước. Ông là một nhà chiến lược có tài chỉ huy quân sự đã đứng ra lãnh đạo quân dân Đại Việt vượt qua mọi thử thách, đưa cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên tới thắng lợi huy hoàng. Thái tử Trần Khâm được vua cha truyền ngôi khi chưa đầy 20 tuổi, đúng vào thời kỳ quân Mông Cổ đánh bại Nam Tống lập ra triều Nguyên. Biết được dã tâm xâm lược của kẻ thù, nhà vua đã cùng quân dân Đại Việt gấp rút chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến bảo vệ giang sơn. Vua biết chọn người tài, giao cho họ những chức quan trọng. Tháng 12 năm 1282, vua lấy Thái uý Trần Quang Khải làm Thượng tướng Thái sư, Đinh Củng Viên làm Hàn lâm viện Học sĩ, Trần Khánh Dư làm Phó đô Tướng quân. Tháng 10 năm 1283, Nhân Tông tiến phong Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế thống lĩnh quân đội cả nước.


Tượng đài Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn

Vua cũng nhận rõ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân nên có sáng kiến tổ chức hai hội nghị lớn: Tháng 10 năm 1282, vua và Thượng hoàng mở hội nghị quân sự Bình Than họp với các vương hầu và bách quan bàn kế sách đánh giặc, cử các tướng lĩnh đem quân đi trấn giữ các nơi hiểm yếu. Tháng 12 năm 1284, vua triệu tập các vị bô lão đại diện cho nhân dân cả nước họp ở điện Diên Hồng để hỏi kế đánh giặc: "Các vị phụ lão đều nói đánh, muôn người cùng hô một tiếng”.
Hội nghị Bình Than năm 1282
Hội Nghị Diên Hồng năm 1284

Qua sự kiện trên có thể thấy vai trò đứng đầu nhà nước của vua Trần Nhân Tông trong hai lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông vào năm1285 và năm 1288 là vô cùng to lớn.

Vua Trần Nhân Tông đã nhiều lần trực tiếp cầm quân đánh giặc, xông pha tới nơi hiểm yếu để động viên khích lệ tướng sĩ. Trận Bạch Đằng giang năm 1288 được coi là trận đánh bại hoàn toàn giặc Nguyên. Trong trận này khi chiến thuyền quân Nguyên vướng cọc, sử chép: "Hai vua đem quân tiếp đến, tung quân đánh lớn, quân Nguyên chết đuối nhiều không kể xiết, nước sông do vậy đỏ ngầu cả".


Trận Bạch Đằng năm 1288

Cũng trong kháng chiến chống Nguyên - Mông, vua Nhân Tông đã thể hiện tài năng ngoại giao kiệt xuất thực thi một chính sách đối ngoại linh hoạt, mềm dẻo có nguyên tắc trên cơ sở bảo vệ chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, đặc biệt đối với quốc gia ngoại bang hùng mạnh luôn có dã tâm xâm lược Đại Việt là triều Nguyên Mông xứ Trung Hoa lúc bấy giờ hay các nước thân cận láng giềng. Một mặt vua giữ lễ thường qua lại thăm viếng, cống nạp như trước. Trong khi kẻ thù thì khiêu khích, đe dọa, Nhân Tông không dứt khoát cự tuyệt mà, nhằm tranh thủ thời gian hoà hoãn để củng cố và khẩn trương xây dựng lực lượng. Vua tìm cách thoái thác những yêu sách xâm hại đến chủ quyền quốc gia và lợi ích của Đại Việt, như khi sứ nhà Nguyên sang dụ hàng, vua đã không trả lời mà còn bắt giam sứ giả, rồi tích cực chuẩn bị kháng chiến.

Với quân xâm lược khi chúng giày xéo non sông thì vua thẳng tay trừng trị, với kẻ thất trận thì rộng lượng khoan hồng. Tù binh quân Nguyên thất trận được cấp lương ăn và phương tiện về nước. Ngay sau chiến thắng quân Nguyên vua Trần Nhân Tông đã cho sai đốt hết ngay tại sân chầu những báo cáo của các ông quan trung thành về bọn phản bội đi theo giặc để yên lòng những kẻ phản trắc. Với sự quyết tâm chiến thắng của toàn quân, toàn dân, Ngài đã chiến thắng quân Nguyên – Mông lần thứ hai năm 1288. Cảm hứng trước sự chiến thắng của dân tộc, Ngài đã làm hai câu thơ lưu lại:
Hai câu thơ của Ngài hãy còn vang vọng:
"Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông muôn thuở vững âu vàng”
(Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu)

Khi đất nước sạch bóng quân thù, vua chú trọng đến khuyến khích sản xuất, tổ chức học hành thi cử, tuyển chọn nhân tài. Lúc yên giặc trở về kinh đô thì xuống chiếu ra lệnh đại xá cho thiên hạ. Nơi nào bị binh lửa cướp phá thì miễn tô dịch…    Khi có nạn đói (1290), vua cho lấy thóc công phát cho dân nghèo và miễn thuế lệ. Năm Quý Tỵ (1293), vua nhường ngôi cho con là Thái tử Thuyên (tức vua Anh Tông) lên làm Thái Thượng hoàng.

 Năm 1294, Ngài cầm quân sang chinh phạt Ai Lao, giữ yên bờ cõi và làm cho nước Triệu Voi tiếp tục thần phục Đại Việt.

Năm Giáp Ngọ (1294), tháng 7 Thượng hoàng xuất gia tại am Vũ Lâm ( nay thuộc  xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Tháng 7, Người chỉ đạo dựng am Ngự Dược xuất gia chuyên tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) trên núi Yên Tử.

Làm vua chỉ chăn dân trăm họ, làm Phật cứu độ cả muôn loài. Bởi vậy, tấm gương Vua Phật tuy ẩn mà lại hiện, tuy mờ mà lại sáng. Ngài bứt khỏi cái bình thường để vượt lên trở thành cái phi thường. Bởi thế, hàng ngàn năm qua, bao triều đại thịnh suy trị vì đất nước này, bao người đã làm vua. Song có ai được nhân gian ngưỡng vọng, tôn thờ như Vua Phật Nhân Tông?

“ Dù ai tranh bá đồ vương
Trẫm xin gửi lại nắm xương chùa này”

Năm 1299. Ngài quyết tâm trở lại thăm Kinh sư lần cuối, rồi đi thẳng lên núi Yên Tử - Quảng Ninh quyết chí tu hành, tham thiền nhập định, lấy tên là "Hương Vân Đại Đầu Đà” và độ Đồng Kiên Cương làm đệ tử và ban pháp hiệu là Pháp Loa.


Năm 1301, Ngài hạ san, đi thăm hữu nghị đất nước Chiêm Thành và nghiên cứu về tôn giáo, tạo lập mối quan hệ hợp tác, hòa bình, hữu nghị với các nước lân bang. Trở về chùa Phổ Minh phủ Thiên Trường giảng kinh, thuyết pháp, mở Hội đại thí vô lượng cho nhân dân.

Năm 1304, Ngài chống gậy trúc dạo đi khắp nước Đại Việt, khuyến khích muôn dân giữ năm giới, tu hành Thập thiện, dẹp bỏ những nơi thờ cúng không đúng Chính pháp, loại bỏ những điều mê tín dị đoan v.v… Ngài đến Bố Chánh – Quảng Bình lập am Tri Kiến và lưu lại đây một thời gian. Sau đó, được Vua Trần Anh Tông thỉnh vào nội cung để truyền giới Bồ tát cho Bá quan văn võ, quần thần.

Sau chuyến thăm hữu nghị Chiêm Thành năm 1301, Ngài có hứa đính hôn Công chúa Huyền Trân cho Vua Chiêm là Chế Mân. Năm 1305, Vua Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và phái đoàn ngoại giao mang vàng, bạc… sính lễ cầu hôn. Đến năm 1306, Ngài đứng ra chứng minh hôn lễ giữa Công chúa Huyền Trân và Chế Mân – Vua Chiêm Thành.

Trước thành quả ngoại giao hôn phối ấy, Vua Chiêm đã dâng hai quận Châu Ô, Châu Rí cho Đại Việt làm quà sính lễ. Đây chính là điều kiện giúp cho Đại Việt mở rộng bờ cõi về phương Nam là Thuận Hóa (Huế).

Năm 1307, Ngài truyền Y Bát lại cho Tôn giả Pháp Loa, lên làm Sơ Tổ Trúc Lâm và Pháp Loa là Tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm. Trong thời gian đó, Ngài thường lui tới chùa Báo Ân Siêu Loại, Sùng Nghiêm Hải Duơng, Vĩnh Nghiêm Lạng Giang, chùa Từ Lâm, chùa Quỳnh Lâm Đông Triều để giảng kinh, thuyết pháp và chứng minh các Lễ hội…

Sau khi truyền Y Bát cho Tôn giả Pháp Loa, Ngài tập trung biên soạn Kinh sách và Ngữ lục. Qua đó, Ngài đã để lại cho đàn hậu học một số tài liệu vô cùng quý báu như: Trần Nhân Tôn thi tập, Đại Hương Hải Ấn thi tập, Tăng Già Toái Sự, Thạch Thất Mỵ Ngữ, Trung hưng Thực Lục, Truyền Đăng Lục v.v….

Trước khi nhập diệt, Ngài đã để lại bài kệ Pháp Thân Thường Trụ qua sự trả lời cho thị giả hầu cận bên Ngài là Bảo Sát: "Tất cả pháp không sanh. Tất cả pháp không diệt. Ai hiểu được như vầy. Thì chư Phật hiện tiền. Nào có đến có đi” (Nhất thiết pháp bất sanh. Nhất thiết pháp bất diệt. Nhược năng như thị giải. Chư Phật thường tại tiền. Hà khứ lai chi hữu).

       Ảnh: Am Ngọa Vân- nơi Đức vua, Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn.


Theo sử cũ, Ngài xả báo an tường, thâu thần thị tịch ngày 01/11/Mậu Thân (1308). Thọ thế 51 năm tại am Ngọa Vân – Đông Triều – Quảng Ninh. Vua Trần Anh Tông cung thỉnh nhục thân Ngài về kinh đô Thăng Long cử hành Quốc tang trong thời gian hai tuần. Sau đó, Vua quan, quần thần, văn võ bá quan, đệ tử Pháp Loa, Bảo Sát và chúng Tăng trong nước cử hành Lễ Trà tỳ.

Sau khi thu nhặt Xá lợi, Xá lợi được chia làm hai phần, một phần xây tháp thờ ở Lăng Quý Đức phủ Long Hưng – Thái Bình; một phần xây tháp tôn thờ tại chùa Vân Yên – Yên Tử, Quảng Ninh, lấy hiệu là Huệ Quang Kim Tháp, dâng Thánh hiệu: Đại Thánh Trần Triều, Trúc Lâm Đầu Đà, Tịnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Phật Tổ.


Đức Vua Phật hoàng Trần Nhân Tông là một vị vua không chỉ để lại những tấm gương chiến công lừng lẫy trong lịch sử dựng nước và giữ nước mà còn là sơ Tổ dòng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, đặc trưng của Việt Nam đã làm rạng danh Phật giáo đời Trần, như một trong những đỉnh cao hưng thịnh của Phật giáo dân tộc.

“Cư Trần Lạc Đạo” của Đức Vua Phật hoàng Trần Nhân Tông là một triết lý sống kết hợp đạo với đời, thổi thêm sức sống cho Phật giáo đương thời tăng  trưởng như tôn giáo nhập thế, luôn đồng hành cùng dân tộc Đại Việt.

“Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Ðối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.”


居 塵 樂 道
( 竹 林 安 子 第 一 祖 陳 仁 宗 )

居 塵 樂 道 且 隨 緣
饑 則 飧 兮 困則 眠
家 中 有 宝 休寻 覓
对 鏡 無 心 莫問 禪

Tạm dịch:

Sống ở trên đời tuỳ theo hoàn cảnh mà vui với đạo
Ðói thì ăn, mệt thì ngủ
Của báu sẵn trong nhà khỏi tìm kiếm
Ðứng trước cảnh vật mà vô tâm thì không phải hỏi Thiền là gì

Dịch thơ:  

Ở  đời  vui đạo, hãy tuỳ duyên,
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền. 
“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên”(居 塵 樂 道 且 隨 緣 )


Comments

Popular posts from this blog

TRUYỀN THUYẾT 9 ĐỨA CON CỦA RỒNG – LONG SINH CỬU PHẨM

NHÀ THỜ ĐỨC BÀ SÀI GÒN